Đền Trù Mật thuộc xã Văn Lung – thị xã Phú Thọ. Thị xã Phú Thọ là đất trung du thuộc tỉnh miền núi Phú Thọ. Vùng đất nội thị thuộc thị xã Phú Thọ ngày nay vào đời Hùng Vương thứ 18 gọi chung là động Phú An.
Từ giữa thế kỷ X, hậu duệ đời thứ 43 của bảo Quốc công đại tướng Ma Khê là Động trưởng Ma Xuân Trường, tộc trưởng họ Ma nắm quyền cai quản vùng này, xây dựng Ma Thành để bảo vệ dân làng. Suốt trong thời kỳ phong kiến Việt nam tự chủ, từ nhà Đinh đến nhà Tiền Lê, Lý, Hậu Lê, địa danh Phú An vẫn được giữu nguyên. Đến thời nhà Nguyễn, năm 1890 triều vua Thành Thái cho đổi tên làng Phú An thành làng Phú Thọ. Trong thời kỳ thuộc Pháp, ngày 5-5-1903, làng Phú Thọ trở thành tỉnh lỵ Phú Thọ. Ngày 22-10-1907, lỵ sở của tỉnh Phú Thọ được nâng cấp lên thành thị xã Phú Thọ. Thị xã Phú Thọ hiện nay có 4 phường và 6 xã.
Là một vùng gồm những dải đồi thấp, xen lẫn đầm hồ và đồng ruộng, bên bờ sông Thao, có đường sắt Hà Nội – Lào Cai chạy qua, thị xã Phú Thọ cách thủ đô Hà Nội khoảng 100km về phía Tây Bắc. Nơi đây còn có nhiều di tích lịch sử, văn hoá, trong đó có đình, đền, miếu thờ sứ quân Kiều Thuận và những người thân của ông. Trong những di tích thờ Kiều Thuận thì đền Trù Mật đã được Nhà nước xếp hạng di tích quốc gia.
Thần tích đền Trù mật
Theo thần tích đền Trù mật “Cương nghị thông minh Chiêu huệ Đại vương phả lục” do hàn lâm viện Đông các đại học sỹ Nguyễn Bính phụng soạn vào triều vua Lê Anh Tông, niên hiệu Hồng Phúc nguyên niên (năm 1572), đền Trù Mật được xây dựng và hoàn thành ngày 16/10 năm Canh Ngọ (năm 970) dưới triều vua Đinh Tiên Hoàng. Đền Trù Mật còn gọi là đền Lăng, vì vừa là lăng mộ vừa là đền thờ sứ quân Kiều Thuận, đặt ở gò thấp đầu làng Trù Mật giáp với làng Phú An (tức làng Phú Thọ).
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư do các sử gia triều Lê biên soạn và tài liệu văn hoá dân gian, Kiều Thuận (còn gọi là Kiều Công Thuận, Kiều Lệnh Công) sinh vào cuối thập kỷ thứ 2 của thế kỷ X, mất năm 968. Ông làm quan dưới triều Ngô Quyền cùng với ông nội, bố đẻ và anh trai. Theo tộc phả dòng họ Mè (Ma) thôn Liêm (trước là ở xóm Khuân) thì Kiều Thuận làm Trưởng quản ngân khố.
Khi xảy ra biến cố chính trị ở Kinh đô Cổ Loa năm 944 (vua Ngô Quyền mất, nghịch thần Dương Tam Kha là em vợ Ngô Quyền cướp ngôi vua và truy sát trung thần), Kiều Thuận cùng gia đình chạy về đất Ma Khê, rồi liên kết với Tộc trưởng Ma Xuân Trường ở Phú An, dựng đồn binh ở bãi sông, lập ấp định cư ở Trù Mật, dần dần hình thành một lực lượng cát cứ tại địa phương.
Trong khoảng 20 năm nắm quyền cai quản tại địa phương, ông thường lo cho dân trừ ác, diệt tà, che chở, bảo vệ dân hai làng Phú An, Trù Mật và lãnh địa của ông khỏi bị cảnh chém giết, cướp bóc, xâu xé của các lực lượng đối nghịch khác, giữ cho dân an cư lạc nghiệp. Kiều Thuận thường tổ chức đại tiệc vào những năm mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Sau những vụ mùa bội thu, dân làng ở các động nô nức về dự hội, mang theo sản vật góp phần để Kiều Thuận khao quân.
Theo tộc phả họ Ma ở thị xã Phú Thọ và tài liệu văn hoá dân gian, tại vùng Ma Khê, Kiều Thuận xây dựng căn cứ Tam Thành, xây thành Hưng Hoá, mở rộng sự liên kết với các hào trưởng, tộc trưởng, các dòng họ ở Ma Khê và vùng lân cận tạo thành căn cứ địa vững chắc. Một vùng rộng lớn từ Ma Khê đến Tây bắc được Kiều Thuận gây dựng, cai quản trong hơn 20 năm ttrời đã làm cho dân tình yên ổn, nông nghiệp mở mang, nơi nơi đều an cư lạc nghiệp, thế lực vững vàng, uy danh vang dội, khiến các sứ quân khác phải nể phục. Đội quân của Kiều Thuận có tới vài vạn người, được tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, trên dưới một lòng được mệnh danh là “Cương Nghị quân”; luân phiên nhau vừa luyện tập, tuần tra canh gác, bảo vệ lãnh địa, vừa sản xuất bảo đảm lương thực nuôi quân, vừa thường trực cơ động sẵn sàng chiến đấu.
Trong hai năm 966 – 967, đất nước ta không có vua, các thế lực trong triều tranh nhau ngôi vương, các hào trưởng địa phương không phục tùng triều đình, gây ra nạn cát cứ của 12 sứ quân. Khi có biến cố 12 sứ quân, đau lòng trước cảnh loạn ly và binh đao, lại nhận thức được Đinh Bộ Lĩnh là người tài đức có thể thống nhất các lực lượng, giữ lấy giang sơn, rằng “cần lao không thắng nổi anh hùng”, “Mệnh trời trao nghiệp lớn là quan trọng, ta không thể lấy sức đua tranh”, Kiều Thuận đã tuẫn tiết để bảo toàn danh dự vào ngày mùng 4 tháng Giêng năm Mậu Thìn (năm 968).
Cảm phục trước tài cao đức trọng của Kiều Thuận, nhân dân hai làng Phú An, Trù Mật đã lập đền thờ ông tại Trù Mật để thường xuyên hương khói tưởng nhớ một người có công với nước với dân và làng Phú An đã tôn ông làm thành hoàng thờ ở đình làng. Năm Canh Ngọ 970. Đinh Bộ Lĩnh sau khi lên ngôi vua (tức vua Đinh Tiên Hoàng) đã ban sắc truy phong cho Kiều Thuận là “Cương nghị đại vương thượng đẳng thần”. Các triều đại phong kiến Việt Nam về sau lần lượt ban sắc truy phong cho Kiều Thuận. Triều Trần Thái Tông năm 1254 ban sắc phong là “Tế thế an dân”, triều vua Lê Thái Tổ năm thứ 5 ban săc phong là “Vi quyền thần”, xếp hạng đền Trù Mật là “Thượng đẳng tối linh từ”, triều vua Lê Thánh Tông – niên hiệu Hồng Đức nguyên niên (năm1470) ban sắc là “Cương nghị thông minh Chiêu huệ đại vương”, triều vua Dực Tông – niên hiệu Tự Đức thứ 9 ban sắc là “Thượng đẳng phúc thần”…Các sắc phong với những mỹ từ đó của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam tự chủ là sự ghi nhận công đức của Kiều Thuận.
Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia
Ở thời đại Hồ Chí Minh hiện nay, năm 1999, Bộ Văn hoá – Thông tin đã xếp hạng đền Trù Mật là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
Trong ngôi đền Trù Mật, trên long ngai thờ Kiều Thuận có bốn chữ vàng “Quang hiển quốc vương” và phía dưới có hai dòng chữ Hán (tạm dịch là: Đại vương vạn đại thông minh sáng suốt, làm rõ nền kỷ cương chính sự, tôn nghiêm rộng mở, che chở giúp đời, yêu dân tỏ rõ, linh thiêng ứng báo, giúp kẻ sỹ giáng phúc ban ơn, uy nghi mạnh mẽ, tài giỏi vì đời, thương người, lòng cung kính thẳng ngay, thể long trời, kính giang sơn, ơn sâu tưới nhuần, sáng ngời nhân đức, phúc ban nơi nơi, lòng nhân rộng mở, võ nghệ tài trí mạnh mẽ, rực rỡ khí tiết, tu văn luyện võ, sáng tỏ thành tâm, khắc ghi công đức). Đây là lời văn ca ngợi Kiều Thuận, đồng thời cũng răn dạy người đời hãy noi gương ông tu tâm tích đức sống vì dân nước, vì nghĩa đời cao cả. Ông thật sự là một danh nhân lịch sử thế kỷ X.
Trải qua bao thế hệ, bao triều đại, tính đến nay đã hơn một nghìn năm, ngôi đền Trù Mật vẫn còn tồn tại như một minh chứng lịch sử công đức của Kiều Thuận. Nhân dân hai làng Phú An và Trù mật đã bao đời nay vẫn cùng nhau xây dựng, tu tạo, gìn giữ ngôi đền và hương khói phụng thờ Kiều Thuận.
Trong những dịp tưởng niệm ngày sinh, ngày mất, ngày lập đền thờ ông… nhân dân hai làng Trù Mật, Phú An cùng đồng bào trong vùng vẫn nhang đăng tế lễ theo nghi thức cổ truyền, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam, biết ơn những người đã xả thân vì nhân dân, vì nghĩa lớn.
Lễ hội đền Trù Mật
Theo thần tích đền Trù Mật còn lư giữu được đến ngày nay và tài liệu văn hoá dân gian, hàng năm dân hai làng Trù Mật và An Phú tổ chức ba ngày lễ trọng tại đền Lăng (xưa kia gọi là ngày cầu): đó là ngày 4 tháng Giêng, ngày 18 tháng 2 âm lịch và ngày 16 tháng 10 âm lịch.
Ngày 4 tháng Giêng là kỷ niệm ngày mất của đức đại vương Kiều Thuận. Lễ vật gồm có lợn đen tuyền, bánh chay (bánh mật, bánh rán, chè kho), hoa quả, đèn nhang. Người mua và bắt lợn phải là trai tân, gái trinh. Trong lễ hội người ta mổ lợn tế thịt sống, dùng mỡ chài phú kín lên thịt. Dân làng bầu chủ tế phái là người “sạch sẽ” (không có tang…). Những chức sắc trong làng được vào làm lễ. Từ sau ngày này dân làng mới được động thổ.
Ngày 18 tháng hai là kỷ niệm ngày sinh của Kiều Thuân. Dân làng Trù Mật, Phú An tổ chức tế lễ trong hai ngày 17 và 18. Ngày 17 bắt đầu vào hội, ngày 19 lễ tạ. Xa xưa nhân dân làm cỗ thái lao, chỉ cúng tiết đông và tim gan lợn. Nhân dân sắm sửa 3 lễ. Một lễ đặt ở ban thờ Kiều Thuận và một lễ đặt ở ban thờ Ma Xuân Trường tại đền Lăng, một lễ đưa sang đặt ở đền Mẫu hậu (mẹ đẻ Kiều Thuận ở gần đó). Bây giờ lễ vật gồm một ván xôi, một con gà. Dân làng bầu chủ tế và chủ tế mặc quần áo thụng màu vàng, đội mũ màu vàng, đi hia (giày) màu vàng. Các chức sắc vào tế lễ mặc quần áo thụng màu lam, đội mũ lam, không đi hia. Cuộc tế gồm 3 tuần (một tuần hương, hai tuần rượu).
Kỳ cầu ngày 18 thánh hai này là ngày mừng thần Thành hoàng làng ra đời nên dân làng cũng coi là lễ thường xuân, làm đại tiệc, tổ chức phần hội rất vui vẻ. Trong hai ngày 17,18 ban ngày dân làng tổ chức nhiều trò chơi như: Chọi gà, đánh cờ (cờ tướng, cờ người), kéo co, đánh đu, thả diều, thi giã bánh giày, ban đêm có hát chèo, hát xẩm…
Trước khi chính thức làm lễ, dân làng rước kiệu bát cống từ đền Trù Mật lên đền Mẫu Khuân (nơi thờ mẹ nuôi Kiều Thuận) xin chân nhang, rồi cùng rước kiệu võng ở đền Mẫu Khuân trở về đền Trù Mật với ý nghĩa là đón mẹ nuôi và em nuôi Kiều Thuận về dự hội. Đây là một biểu hiện đạo lý của Kiều Thuận “cha sinh cũng như mẹ dưỡng”, cũng là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của nhân dân Trù Mật, Phú An nói riêng và của dân tộc ta nói chung. đền Mẫu Khuân vẫn được xây dựng lại trên nền đất cũ rất to đẹp, nay ở phố Sa Đéc, phường Hùng Vương, thị xã Phú Thọ.
Ngày 16 tháng mười, kỷ niệm ngày lập đền thờ Kiều Thuận và công bố sắc truy phong của vua Đinh Tiên Hoàng cho ông, đồng thời cũng là lễ ăn cơm mới, mừng vụ mùa thắng lợi.
Lễ hội ngày 16 tháng 10 âm lịch xưa tổ chức như sau: Làng Trù Mật tổ chức vào ngày 14,15,16; làng Phú An tổ chức vào ngày 16, 17, 18; xóm Khuân (sau là thôn Liêm) ngày 18, 19, 20. Đầu tiên là khởi lễ, dân làng tổ chức đốt gạo trong ống tre lam, có cá mòi, tương truyền đấy là lương thực và thực phẩm của binh lính Kiều Thuận xưa kia khi xuất quân.
Trong những ngày lễ hội này, ban ngày dân làng tổ chức nhiều trò chơi như đánh cờ, kéo co, chọi gà; ban đêm có hát múa mừng đại lễ…
Hiện nay, hàng năm, cả ba làng cùng nhau tổ chức lễ hội đông vui tại đền vào ngày 16, 17 tháng 10 âm lịch. Ban ngày tổ chức lễ bái và một số trò chơi như đánh cờ, chọi gà, kéo co…; ban đêm không tổ chức văn nghệ như xưa.
Nếu như cái chết của Kiều Thuận đã góp phần vào sự thống nhất đất nước, thì việc tôn tạo đền Trù Mật xứng tầm di tích Quốc gia và tiếp tục phục hồi đầy đủ lễ hội ở đền sẽ ngày càng củng cố và phát triển tình đoàn kết cộng đồng dân cư và truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, động viên mọi người phải biết hy sinh, chung tay xây dựng xã hội vì ngày mai tươi sáng của đất Tổ Vua Hùng và dân tộc Việt Nam anh hùng.
Nguồn Sách Lễ hội truyền thống vùng Đất Tổ.